Lịch sử Bắc_Borneo

Hình thành và những năm đầu

Alfred Dent là người thành lập thực thể tiền thân của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo.

Bắc Borneo được hình thành vào năm 1877–1878 thông qua một loạt vụ cắt nhượng lãnh thổ tại miền bắc đảo Borneo từ Vương quốc Hồi giáo BruneiVương quốc Hồi giáo Sulu cho một doanh nhân và nhà ngoại giao người Áo gốc Đức là Gustav Overbeck.[2][3][4] Một lãnh thổ cũ của Công ty Mậu dịch Hoa Kỳ Borneo tại bờ biển phía tây của miền bắc Borneo đã được chuyển giao cho Overbeck trước đó,[5] khiến ông phải đến Brunei nhằm hợp pháp hóa nhượng địa mà ông mua từ Joseph William Torrey.[6][7][8] William Clark Cowie giữ một vai trò quan trọng do là một người bạn thân thiết của Vương quốc Hồi giáo Sulu, nhân vật này giúp Overbeck mua thêm lãnh thổ tại bờ biển phía đông của Borneo.[9][10][11] Trong khi đó, dù ảnh hưởng của Vương quốc Hồi giáo Bulungan cũng vươn đến Tawau trên bờ biển phía đông,[12] song Sulu chiếm ưu thế hơn.[13]

Sau thành công trong việc mua được mảnh đất lớn tại cả phần phía tây và phía đông của miền bắc Borneo, Overbeck đến châu Âu để xúc tiến lãnh thổ này tại Áo-Hung và Ý cũng như tại quê nhà là Đức, song không quốc gia nào tỏ ý thực sự quan tâm.[5][14] Anh là quốc gia duy nhất hồi đáp, họ vốn đã tìm cách kiểm soát các tuyến mậu dịch tại Viễn Đông từ thế kỷ 18.[15][16][17] Mối quan tâm của người Anh được củng cố do họ hiện diện tại Labuan từ năm 1846.[18][19][20] Do đó, Overbeck nhận được khoản hỗ trợ tài chính từ anh em Dent từ Anh (Alfred Dent và Edward Dent) và hỗ trợ ngoại giao và quân sự từ chính phủ Anh.[4][16][21] Sau khi có được ủng hộ từ phía Anh, một điều khoản được đưa vào các hiệp ước, theo đó các lãnh thổ bị cắt nhượng sẽ không được trao cho bên khác mà không có phê chuẩn của chính phủ Anh.[2]

Biến đổi lãnh thổ của Bắc Borneo từ năm 1500 đến năm 1905.
  Brunei
  Sulu
  Bắc Borneo thuộc Anh

Do không thể thu hút quan tâm từ các chính phủ Áo và Đức, Overbeck rút lui vào năm 1879; toàn bộ các quyền lợi hiệp ước của ông với các vương quốc Hồi giáo được chuyển sang cho Alfred Dent, người này vào năm 1881 lập ra Hiệp hội hữu hạn lâm thời Bắc Borneo cùng sự ủng hộ từ người đồng hương Rutherford Alcock, Đô đốc Henry Keppel, Richard Biddulph Martin, Đô đốc Richard Mayne và William Henry Read.[22][23][24] Hiệp hội lâm thời sau đó xin Nữ hoàng Victoria một hiến chương hoàng gia, và được cấp vào ngày 1 tháng 11 năm 1881.[5][25][26] William Hood Treacher được bổ nhiệm làm thống đốc đầu tiên,[27]Kudat tại mũi phía bắc của Borneo được chọn làm thủ phủ hành chính của Hiệp hội lâm thời.[28][29] Việc cấp hiến chương hoàng gia cho hiệp hội khiến người Hà Lan và người Tây Ban Nha lo ngại, họ sợ rằng người Anh có thể đe dọa đến vị thế các thuộc địa của họ.[30]

Vào tháng 5 năm 1882, Hiệp hội lâm thời bị thay thế bằng Công ty Đặc hứa Bắc Borneo mới thành lập, Alcock giữ vai trò là chủ tịch đầu tiên và Dent trở thành giám đốc điều hành của công ty.[31] Chính quyền này không được nhìn nhận là một lãnh thổ mà Anh giành được, thay vào đó chỉ là một doanh nghiệp tư nhân có hướng dẫn của chính phủ nhằm bảo vệ lãnh thổ khỏi bị các quốc gia châu Âu khác xâm phạm.[32] Dưới thời Thống đốc Treacher, công ty giành được thêm lãnh thổ trên bờ biển phía tây từ Vương quốc Hồi giáo Brunei.[33] Công ty sau đó thu được thêm chủ quyền và quyền lợi lãnh thổ từ sultan của Brunei, bành trướng lãnh thổ đến sông Putatan (tháng 5 năm 1884), huyện Padas (tháng 11 năm 1884), sông Kawang (tháng 2 năm 1885), quần đảo Mantanani (tháng 4 năm 1885) và thêm các lãnh thổ nhỏ tại Padas (tháng 3 năm 1898).[note 1]

Vào giai đoạn đầu của chính quyền, tồn tại một yêu sách tại miền bắc Borneo từ nhà cầm quyền Tây Ban Nha tại Philippines, có một nỗ lực nhằm dựng quốc kỳ Tây Ban Nha tại Sandakan song bị một chiến hạm của Anh cản trở.[17] Nhằm ngăn chặn xung đột hơn nữa và kết thúc yêu sách của Tây Ban Nha đối với miền bắc Borneo, một thỏa thuận được gọi là Nghị định thư Madrid được ký kết tại Madrid giữa Anh, Đức và Tây Ban Nha và năm 1885, theo đó công nhận sự hiện diện của Tây Ban Nha tại quần đảo Philippines.[26][34] Do công ty không muốn can dự vào các vấn đề ngoại giao nhiều hơn nữa,[30] Bắc Borneo được chuyển thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh vào ngày 12 tháng 5 năm 1888.[35][36] Năm 1890, Labuan được sáp nhập vào chính quyền của Bắc Borneo, song được trao lại cho chính phủ Anh cai trị vào năm 1904.[37] Cư dân địa phương tiến hành một số cuộc khởi nghĩa, từ năm 1894 đến năm 1900 dưới quyền lãnh đạo của Mat Salleh và dưới quyền lãnh đạo của Antanum vào năm 1915.[38] Chiến tranh thế giới thứ nhất không có tác động lớn đến lãnh thổ, song ngành gỗ phát triển trong giai đoạn giữa hai thế chiến.[39]

Chiến tranh thế giới thứ hai và suy thoái

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Bắc Borneo bị quân Nhật áp đảo vào ngày 17 tháng 12 năm 1941.[40] Đến ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hải quân Nhật bản đổ bộ tại Labuan mà không có kháng cự.[41] Từ ngày 7 tháng 1, binh sĩ Nhật Bản tại Sarawak vượt biên sang Borneo thuộc Hà Lan và bắt đầu đến Jesselton. Một lực lượng lục quân hùng mạnh của Nhật Bản đến từ Mindanao và bắt đầu đổ bộ tại đảo Tarakan trước khi tiến đến Sandakan vào ngày 17 tháng 1.[41] Quân Nhật tiến đến mà không gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ nào do lãnh thổ bảo hộ này chủ yếu dựa vào Hải quân Anh để phòng thủ. Mặc dù Bắc Borneo có một lực lượng cảnh sát, song họ chưa từng có lục quân hoặc hải quân riêng.[42] Đến cuối tháng 1, Bắc Borneo hoàn toàn bị quân Nhật chiếm đóng.[43] Lãnh thổ được quản lý như là một bộ phận của Đế quốc Nhật Bản, các viên chức của công ty đặc hứa được phép tiếp tục quản lý dưới sự giám sát của người Nhật.[44]

Binh sĩ Nhật Bản bị giải giáp đang hành quân đến một khu tù binh chiến tranh tại Jesselton sau khi họ đầu hàng.

Việc quân Nhật tiến đến Borneo và liên minh Anh-Nhật sụp đổ đã được dự đoán, các điện báo mật cho thấy các tàu Nhật Bản đậu thường xuyên tại Jesselton tiến hành hoạt động gián điệp.[45] Nhiều binh sĩ Anh và Úc bị bắt sau khi MalayaSingapore thất thủ đã bị đưa đến Bắc Borneo và trở thành tù binh chiến tranh tại trại giam Sandakan, sau đó họ bị buộc phải đi bộ từ Sandakan đến Ranau.[46][47] Cuộc chiếm đóng khiến cư dân tại các khu vực duyên hải phải vào nội lục nhằm tìm thức ăn và chạy trốn hành động tàn ác trong thời chiến,[48] dẫn đến hình thành một số phong trào kháng chiến; một trong số đó là quân du kích Kinabalu do Albert Kwok lãnh đạo và được các nhóm bản địa ủng hộ.[49][50]

Lực lượng Đồng Minh được triển khai đến Borneo trong chiến dịch Borneo nhằm giải phóng đảo. Lực lượng Đế quốc Úc (AIF) giữ vai trò đáng kể trong sứ mệnh này,[51] binh sĩ được phái đến các đảo Tarakan và Labuan để bó chặt phía đông và tây của Borneo.[52] Đơn vị đặc biệt Z của Đồng Minh cung cấp tình báo và thông tin khác từ phía Nhật Bản nhằm giúp tạo thuận lợi để AIF đổ bộ,[52] còn các tàu ngầm của Hoa Kỳ cũng được sử dụng để vận chuyển đặc công của Úc đến Borneo.[53] Hầu hết các đô thị lớn tại Bắc Borneo bị oanh tạc nghiêm trọng trong giai đoạn này.[54] Chiến tranh kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng và chính quyền Bắc Borneo được chính quyền quân sự Anh tiếp quản từ tháng 9.[55] Chính quyền chính thức của công ty trở lại cai quản lãnh thổ, song không thể tìm được vốn cho chi phí tái thiết sau chiến tranh, nên họ nhượng quyền cai trị lãnh thổ bảo hộ cho chính quyền thuộc địa hoàng gia vào ngày 15 tháng 7 năm 1946.[1][56][57]